Khởi đầu Chiến_tranh_Kế_vị_Tây_Ban_Nha

Tin tức Louis XIV chấp nhận chúc thư của Carlos II và Hiệp ước phân chia thứ hai mất hiệu lực đã gây ra nỗi lo lớn cho William III, ông cho rằng Felipe V chẳng là cái gì khác hơn một con rối của vua Pháp. Tuy nhiên, ở Anh nhiều ý kiến cho rằng việc chấp nhận các ý muốn của Carlos II sẽ tốt hơn là cái hiệp ước mà trước mắt Pháp sẽ mở rộng lãnh thổ của mình, bao gồm cả việc sáp nhập Napoli và Sicily vào vương quốc Pháp sẽ tạo ra mối đe dọa cho con đường thương mại Levantine của Anh quốc. Sau khi kết thúc Chiến tranh Chín năm, Đảng Bảo thủ - đã kiểm soát Viện thứ dân - tìm cách cuộc chiến và khôi phục các hoạt động thương mai bình thương. Tuy nhiên, đối với William III thì thế lực của Pháp sẽ tăng lên và chiến tranh là khó tránh, và cùng với Anthonie Heinsius, Grand Pensionary của Hà Lan người trên thực tế nắm quyền điều hành nước Hà Lan, ông, đã chuẩn bị để tìm kiếm sự hỗ trợ. William III được cảm thông bởi những hành động của Louis XIV sau đó.[19]

Chân dung nhà vua William III (1650–1702) bởi Godfrey Kneller. William III là đối thủ lâu năm của Louis XIV, nhưng ông lại băng hà trước khi tuyên bố chiến tranh.

Hành động đầu tiên của Louis XIV là chính thức tái công nhận vị trí của Philippe trong danh sách kế vị ở Pháp, bằng cách tuyên bố về quyền thiêng liêng của các vị vua. Điều này dẫn đến một viễn cảnh liên minh cá nhân Pháp-Tây Ban Nha dưới một ngai vàng duy nhất, mâu thuẫn với chúc thư của Carlos II.[20] Tiếp đó, đầu tháng 2 năm 1701 Louis XIV đưa quân đến để bảo đảm quyền kế vị của nhà Bourbon ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha và gửi lực lượng Pháp đến 'Pháo đài' ở Hà Lan mà William III đã giành được sau Hòa ước Ryswick. Đất Hà Lan thuộc Tây Ban Nha có vị trí chiến lược quan trọng đối với người Hà Lan khi đó là vùng đệm giữa Pháp và nền Cộng hòa. Nhưng sự xâm lược của người Pháp cũng đã gây phương hại đến lợi ích thương mại của Hà Lan[21] – những hạn chế đó đến thời điểm này đã đảm bảo vị trí của Cộng hòa ở các vịnh và cửa biển ở những vùng ven biển châu Âu. Phía Anh cũng có những lợi ích của họ ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, và các bộ trưởng đã công nhận mối nguy hiểm đến từ một kẻ thù ở phía đông eo biển Dover lợi dụng gió thuận lợi và thủy triều, sẽ đe dọa đến Đảo Anh.[22] Sự dời quân của người Pháp đã gây ra áp lực đối với Các cường quốc hàng hải nếu họ công nhận Philip là vua của Tây Ban Nha – điều mà họ đã làm từ trước – nhưng theo quan điểm của William III, việc này sẽ đảo lộn hết các chính sách trong vòng 20 năm trở lại đây.[23]

Louis XIV tiếp tục làm mất lòng Các cường quốc hàng hải khi đề nghị phía Tây Ban Nha cấp ưu đãi đặc biệt cho những thương nhân Pháp buôn bán trong đế chế, từ đó ép chẹt các lái buôn Anh và Hà Lan.[24] Đối với nhiều người, Louis XIV đã một lần nữa đóng vai trò trọng tài ở châu Âu, và ủng hộ một chính sách chiến tranh đang đến gần. Mặc dù tham vọng và động cơ của nhà vua nước Pháp là gì không ai biết rõ,[25] Chính phủ Anh coi như những hành động của Louis XIV là nhằm mở rộng lãnh thổ của ông ta và tìm cách thống trị Tây Ban Nha. Với mối đe dọa từ một thế lực mới sẽ thống trị châu Âu và thương mại ở hải ngoại, London lúc này đã sẵn sàng ủng hộ những cố gắng của William III là liên minh với Hoàng đế và Quốc hội Hà Lan, và bảo vệ quyền Tự do ở châu Âu, tài sản và Hòa bình ở Anh, và để hạn chế quyền lực quá đáng của người Pháp.'[26]

Leopold I dời Milan

Miền bắc Itali. Tây Ban Nha có các lãnh thổ ở Ý bao gồm Vương quốc Naples và Sicily, Sardinia, Lãnh địa Công tước Milan, Lãnh địa Hầu tước Finale, và cảng Tuscan (bang Presidi).

Ngay từ đầu Leopold I đã bác bỏ bản chúc thư của Carlos II: ông nhất quyết không từ bỏ các lãnh địa Tây Ban Nha ở Ý, nhất là Lãnh địa Công tước Milan vốn được xem là trọng điểm an ninh ở miền nam nước Áo.[27] Trước khi mở đầu cuộc chiến, phía Milan đã đứng về phe Pháp khi phó vương nơi này công nhận Felipe V; và láng giềng của nó là Lãnh địa Công tước Mantua cũng làm như vậy với một thỏa thuận bí mật vào tháng 2, 1701. Cộng hòa Venice, Cộng hòa Genoa, Đại Công quốc Toscan, và Lãnh đại Công tước Parma (dưới quyền của Giáo hoàng), đứng trung lập. Ở xa hơn về phía nam, Vương quốc Naples thừa nhận Felipe V là Vua của Tây Ban Nha, cũng như Giáo hoàng Clement XI do khuynh hướng thân Pháp của các Hồng y dưới quyền ông, nên ông đứng trung lập và có phần nghiêng về người Pháp. Chỉ có ModenaGuastalla – những nơi trục xuất quân đội Pháp vào đầu chiến dịch – là ủng hộ hoàng đế.[28]

Nhà lãnh đạo có ảnh hưởng nhất ở miền bắc Italy là Victor Amadeus II, Công tước Savoy, người cũng có khả năng tuyên bố kế vị Tây Ban Nha thông qua bà cố của ông, con gái vua Felipe II của Tây Ban Nha. Cũng như Hoàng đế, Công tước mưu đồ sở hữu Công quốc Milan láng giềng, và ông ta nịnh hót cả Louis XIV và Leopold I để thực hiện những ý đồ riêng của ông ta. Tuy nhiên, việc Công tước Anjou kế vị ngai vàng Tây Ban Nha và sự thống trị của triều Bourbon đã quá rõ ràng, nên ngày 6 tháng 4 năm 1701, Victor Amadeus phải miễn cưỡng liên minh với Pháp. Quân đội Pháp đóng ở Milan lúc bấy giờ được phép đi qua lãnh thổ Savoy. Đổi lại, Công tước nhận được một khoản tiền và danh hiệu là chỉ huy tối cao quân đội Savoy và Bourbon ở Italia (dù chỉ là trên danh nghĩa), mặc dù ông không đưa ra đề nghị gì về lãnh thổ. Liên minh được thắt chặt bằng cuộc hôn nhân giữa Felipe V với cô con gái 13 tuổi của Amadeus, Maria Luisa.[29]

Sự hiện diện của người Pháp ở Italy đe dọa đến an ninh của Áo. Mặc dù chiến thắng gần đây của Leopold I trước quân Thổ đã giúp ông củng cố vùng đất phía đông, ông chuyển sang con đường ngoại giao khôn khéo hơn.[30] Vì thế tháng 5 năm 1701, trước khi tuyên bố chiến tranh, Leopold I gửi Hoàng thân Eugene xứ Savoy đi ngang qua Alps để bảo vệ lãnh địa Công tước Milan bằng binh lực. Đầu tháng 6 quân của Eugene gồm 30,000 người đã vượt qua những ngọn núi vào lãnh địa trung lập Venice, và ngày 9 tháng 7 ông đánh bại một chi đội từ quân của Nguyên soái Catinat's tại Trận Carpi; sau đó là một chiến thắng khác vào ngày 1 tháng 9 trước người kế nhiệm của Catinat, Nguyên soái Villeroi, tại Trận Chiari. Eugene đã chiếm giữ nhiều lãnh thổ thân Pháp, mặc dù chiến thắng các của ông nhưng ông không được nhiều sự trợ giúp từ Vienna. Sự sụp đổ của lòng tin từ chính quyền dẫn đến Leopold I tháo hết quân đội, khi buộc Eugene vào làm theo những chính sách trái với bình thường. Ngày 1 tháng 2 năm 1702 ông tấn công tổng hành dinh của người Pháp tại Cremona. Cuộc tấn công cuối cùng thất bại, nhưng Villeroi bị bắt sống (sau được thả ra), khiến người Pháp lùi về sau Adda. Nhà Bouborn vẫn chiếm giữ Lãnh địa Công tước Milan, tuy nhiên người Áo đã chứng minh họ có thể và sẽ chiến đấu để bảo vệ lợi ích của họ, và sự thành lập một liên minh với Anh và Cộng hòa Hà Lan.[31]

Đại Liên minh tái lập

Chân dung của John Churchill, Công tước Marlborough (1650–1722) bởi Adriaen van der Werff.

Các cuộc đàm phán bắt đầu tại The Hague vào tháng 3 năm 1701. Mặc dù có những phản kháng ban đầu, William III, bây giờ đã gần chết, giao cho Bá tước Marlborough làm người kế nhiệm ông về chính trị và quân sự, bổ nhiệm ông làm Đại sứ đặc biệt tại The Hague và chỉ huy trưởng lực lượng Anh và Scotland tại Vùng đất thấp. Heinsius đại diện cho Hà Lan trong khi Bá tước Wratislaw, đại sứ đế quốc ở London, đàm phán thay mặt cho Hoàng đế. Cuộc đàm phán với đại sứ Pháp, Bá tước d'Avaux, xoay quanh số phận của chế độ quân chủ Tây Ban Nha, các cuộc xâm nhập của quân Pháp vào Hà Lan thuộc Tây Ban NhaLãnh địa Công tước Milan, và các đặc quyền thương mại cấp cho thương nhân Pháp tại các cường quốc hàng hải. Những cuộc đàm phán này không đi đến kết quả gì, và họ giải tán đầu tháng 8. Tuy nhiên, các cuộc thảo luận để thành lập liên minh chống Pháp giữa Anh, Cộng hòa Hà Lan, và Áo đã có những bước tiến đáng kể, kết quả là việc ký Hiệp ước thứ hai của Đại Liên minh (hay, Hiệp ước The Hague) ngày 7 tháng 9. Mục tiêu tổng thể của Liên minh khá mơ hồ: không có đề cập đến việc Đại Công tước Karl lên ngai vàng Tây Ban Nha, nhưng Hoàng đế sẽ nhận được sự hài lòng 'công bằng và hợp lý' cho việc kế thừa ngôi vua Tây Ban Nha, và ý kiến rằng vương quốc PhápTây Ban Nha vẫn độc lập với nhau là trọng tâm của thỏa thuận.[32]

Anne của Liên hiệp Anh (1665–1714) bởi Michael Dahl c. 1705.

Ngay cả sau sự hình thành của Đại liên minh nhà vua Pháp tiếp tục phản kháng. Ngày 16 tháng 9 năm 1701, vị vua Công giáo James II của Anh (VII of Scotland) – lưu vong ở Saint-Germain từ sau 'Cách mạng Vinh quang' – chết. Mặc dù đã từ bỏ phe Jacobites tại Hiệp ước Ryswick, Louis XIV sớm công nhận con trai Công giáo của James II, James Francis Edward Stuart, là Vua 'James III' của Anh. Triều đình Pháp khẳng định việc cấp cho James danh hiệu vua chỉ là hình thức, nhưng các Bộ trưởng Anh đã hoài nghi và bất bình. Tuyên bố của Louis XIV dường như là thách thức đối với Nghị viện và Đạo luật Định cư, vào lúc cái chết của người con trai còn sống duy nhất Anne đã thay đổi thứ tự kế vị ngôi vua Anh về cho Thái phu nhân Sophia của Hanover (cháu nội của James VI/I) và những người thừa kế Kháng Cách của bà. Hệ quả là, sự bảo đảm sự thừa kế của người Tin Lành được công nhận bởi Đại Liên minh như một trong những mục tiêu chính của người Anh trong cuộc chiến.[33]

Ngày 19 tháng 3 năm 1702, William, Vua của Anh và Thống đốc Hà Lan, băng. Anne lên kế tự ngai vàng và cùng lúc đó đảm bảo trước Hội đồng Cơ mật hai mục tiêu chính của bà: duy trì quyền kế vị của phe Tin Lành, và hạn chế quyền lực của Pháp.[34] Sự kế nhiệm của Anne cũng đảm bảo địa vị của Marlborough: bà tấn phong ông ta làm Tổng chỉ huy các lực lượng của bà ở trên bộ (cùng với những sự đề bạt khác), trong khi Sarah, vợ của Marlborough và là bạn lâu năm với Anne, được giao các vị trí chủ chốt trong gia đình hoàng gia. Nữ hoàng cũng dùng lại người cố vấn thân cận của bà (và bạn của Marlboroughs), Sidney Godolphin, và bổ nhiệm ông làm Đại Thủ Quỹ.[35] Ở Cộng hòa Hà Lan, cái chết của William dẫn đến giai đoạn gọi là Thời kì không Thống đốc thứ hai, và hầu hết các tỉnh chống lại nhà Orange, Cộng hòa, phe ưa chuộng hòa bình đã lấy được ưu thế. Tuy nhiên trái với kì vọng ban đầu của người Pháp chế độ mới thông qua nhiều chính sách đối ngoại của.[36] Sự thống trị của người Pháp ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha bị coi là một mối đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại của nền Cộng hòa và nền thương mại của nó, và thương gia ở Amsterdam lo sợ cho nhiều đặc quyền của họ ở Tây Ban Nha và Mỹ thuộc Tây Ban Nha sẽ rơi vào sự kiểm soát của người Pháp. Do đó, nhiều chính sách hàng động trong những năm cuối William vẫn được giữ lại, bao gồm Heinsius giàu kinh nghiệm có mối quan hệ cá nhân với Marlborough là nền tảng cho sự thành công của Đại Liên minh trong giai đoạn đầu của cuộc chiến.[37]

Khi mà không có bước ngoặt nào về ngoại giao kể từ sau khi ký Hiệp ước thứ hai của Đại Liên minh, Anh, Cộng hòa Hà Lan, và Áo tuyên chiến với Pháp vào ngày 15 tháng 5 năm 1702.[38]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Kế_vị_Tây_Ban_Nha //books.google.com/books?id=RIQioWcVxnkC //books.google.com/books?id=zGk1kgEACAAJ http://www.spanishsuccession.nl/1702.html http://www.british-history.ac.uk/report.asp?compid... http://www.a2a.org.uk/search/documentxsl.asp?com=1... http://books.google.com.vn/books?id=-PMNAAAAQAAJ&p... http://books.google.com.vn/books?id=4LPODzLgDVEC&p... http://books.google.com.vn/books?id=8sxZmp_EzncC&q... http://books.google.com.vn/books?id=JwFoAAAAMAAJ&q... http://books.google.com.vn/books?id=SQRoAAAAMAAJ&q...